Sáp nhập tỉnh, xây dựng chính quyền 2 cấp: Tổ chức lại hệ thống quản lý nước, thuận lợi hay rối rắm?
Sau sáp nhập tỉnh và thực hiện mô hình chính quyền 2 cấp, hàng loạt trung tâm nước sạch nông thôn bị hợp nhất hoặc đổi tên, khiến mạng lưới quản lý nước phân tán, chồng chéo. Câu hỏi đặt ra: Hệ thống này đang vận hành thuận lợi hay rối rắm hơn?
Phó cục trưởng Cục Quản lý & Xây dựng công trình thuỷ lợi Lương Văn Anh tại phát biểu tại Diễn đàn Nước sạch nông thôn văn minh ngày 16/10 tại TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Minh Nghĩa
Sau tinh gọn bộ máy, lĩnh vực nước sạch bị “chia nhỏ”
Khi mô hình chính quyền 2 cấp và sáp nhập tỉnh được triển khai, hàng loạt thiết chế ngành dọc, trong đó có hệ thống quản lý nước sạch nông thôn buộc phải tổ chức lại.
Theo ông Lương Văn Anh, Phó cục trưởng Cục Quản lý & Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến nay có 18.109 công trình cấp nước nông thôn tập trung trên cả nước, nhưng chỉ 32% công trình hoạt động bền vững, 26,3% hoạt động tương đối bền vững, còn lại 41,8% kém bền vững hoặc không hoạt động phần lớn là các công trình do UBND xã và cộng đồng quản lý.
Sau sáp nhập, nhiều trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, vốn là đơn vị sự nghiệp chuyên trách, bị hợp nhất vào trung tâm đa ngành: Trung tâm Quan trắc tài nguyên – môi trường (Cao Bằng), Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp – tài nguyên và môi trường (Điện Biên) hay Trung tâm Nước và Quan trắc môi trường (Sơn La).
Ở các tỉnh như Đắk Lắk, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Quảng Trị, An Giang, Cà Mau, trung tâm vẫn mang tên cũ nhưng kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực khác, khiến tính chuyên sâu trong quản lý nước sạch suy giảm rõ rệt.
Ông Trần Quang Hùng - Tổng Giám đốc Công ty Khai thác thuỷ lợi miền Nam, đơn vị đang khai thác nước sạch hồ Dầu Tiếng. Ảnh: Minh Nghĩa
Khi “nhiều người cùng quản” nhưng không ai chịu trách nhiệm
Theo thống kê, trong tổng số công trình hiện có, Việt Nam hiện có khoảng 18.100 công trình cấp nước nông thôn tập trung. Cơ cấu quản lý vận hành được phân tán: Đơn vị sự nghiệp quản lý 1.700 công trình (9,5%), doanh nghiệp/tư nhân 2.900 (16%), UBND xã 5.700 (31,5%), hợp tác xã 400 (2%) và cộng đồng dân cư 7.400 (41%).
Như vậy, hơn 72% công trình đang do địa phương và cộng đồng tự vận hành, nhóm vốn yếu về tài chính, kỹ thuật, và hầu như không có quỹ bảo trì, pháp lý hạn chế.
Ông Lương Văn Anh, Phó cục trưởng Cục Quản lý & Xây dựng công trình thủy lợi chỉ rõ: “Mô hình xã, cộng đồng chiếm tỷ trọng lớn nhưng năng lực quản lý thấp, không có nguồn kinh phí để nâng cấp, sửa chữa, khiến nhiều công trình xuống cấp nhanh sau 3 - 5 năm vận hành.”
Sau sáp nhập, vấn đề càng phức tạp. Trung tâm bị giải thể, hồ sơ bàn giao dở dang, trong khi cơ chế “chủ sở hữu tài sản” không rõ ràng. Tỉnh chịu trách nhiệm đầu tư, xã lại trực tiếp thu tiền nước, một mắt xích trách nhiệm dễ bị đứt gãy.
Khi một công trình hỏng, không ai biết phải xin vốn từ đâu, thuộc quản lý của đơn vị nào, khiến hàng trăm trạm cấp nước “nằm chờ kinh phí” qua nhiều năm.
Cần một mô hình thống nhất, rõ người, rõ việc
Báo cáo của Cục Quản lý & Xây dựng công trình thủy lợi cũng cảnh báo hiện thiếu khoảng 16.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2021 - 2025 để bảo trì, nâng cấp hạ tầng nước sạch nông thôn. Việc sáp nhập bộ máy mà không đi kèm cơ chế tài chính tương ứng đã khiến “tinh gọn về đầu mối nhưng nghẽn về năng lực”.
Một cán bộ quản lý ở miền Nam nhận xét: “Trước đây mỗi trung tâm quản lý vài chục công trình, nay kiêm thêm môi trường, đất đai, tài nguyên; kỹ sư nước sạch phải làm cả quan trắc và thống kê, dẫn đến giám sát chất lượng nước bị bỏ ngỏ.”
Chủ trương thống nhất mô hình quản lý nước sạch nông thôn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường vì thế cần được thực hiện quyết liệt hơn, với hai nguyên tắc: Phân định rõ trách nhiệm chủ thể tài sản, vận hành, giám sát. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công trình nước sạch, cập nhật tình trạng, tuổi thọ, công suất và mức bền vững.
Đây không chỉ là bài toán hành chính mà là bài kiểm tra năng lực quản trị công của hệ thống địa phương sau sáp nhập. Nếu không sớm thống nhất mô hình quản lý và quy trình bảo trì, những công trình “vô chủ” sẽ tiếp tục xuống cấp, kéo theo niềm tin người dân suy giảm.
Việc tinh gọn bộ máy chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi cùng cơ chế trách nhiệm rõ ràng và năng lực quản lý chuyên biệt.
Trong quản lý nước sạch nông thôn, một lĩnh vực gắn với sinh kế và sức khỏe của hàng chục triệu người, “giao chéo, quản chồng” không chỉ làm rối hệ thống mà còn đe dọa tính bền vững của toàn bộ chương trình. Cần một mô hình tổ chức thống nhất, tinh gọn nhưng chuyên nghiệp, để mỗi giọt nước đến tay người dân không bị thất thoát giữa tầng tầng nấc nấc hành chính.