A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

Dấu ấn nhiệm kỳ ngành Công Thương phía Nam: Bài 3: Ba đòn bẩy vươn mình

Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và liên kết hạ tầng là ba lực đẩy quan trọng, khi hợp thành hứa hẹn đánh thức tiềm lực quốc gia, đưa kinh tế Việt Nam vươn tầm.

Chuyển đổi số: Chính quyền số và thương mại điện tử

Nền tảng chính sách cho chặng đường 2025 - 2030 đã được dựng xây vững vàng qua hàng loạt văn kiện chiến lược vừa ban hành, mở rộng cánh cửa chờ đón những cơ hội xoay chuyển tầm vóc của nền kinh tế quốc gia.

Nổi bật là Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Quyết định 1509/QĐ-BCT ngày 30/5/2025 của Bộ Công Thương phê duyệt kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh).

Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và liên kết hạ tầng là ba lực đẩy quan trọng, khi hợp thành, hứa hẹn đánh thức tiềm lực quốc gia, đưa kinh tế Việt Nam vươn tầm

Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và liên kết hạ tầng là ba lực đẩy quan trọng, khi hợp thành, hứa hẹn đánh thức tiềm lực quốc gia, đưa kinh tế Việt Nam vươn tầm

Trong đó, Nghị quyết 68 giao sứ mệnh hun đúc đội ngũ doanh nhân Việt Nam và kinh tế tư nhân thành "động cơ đẩy" chủ lực của nước ta, góp phần đột phá về nguồn lực đầu tư và sức cạnh tranh của nền kinh tế; cũng là lực lượng tiên phong trên trận tuyến phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Còn Nghị quyết 57, song hành với sứ mệnh mở đường cho đột phá khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, còn được coi là "kim chỉ nam" khai thông đại lộ kiến thiết chính quyền số, kiên quyết gỡ bỏ từng tầng thủ tục giấy tờ cồng kềnh đã trói buộc bộ máy hành chính bấy lâu.

Từ điểm tựa Nghị quyết 57, Bộ Công Thương đang vươn lên thành "mũi xung kích" mẫn tiệp nhất trước nhiệm vụ chuyển đổi số quan trọng, cấp bách. Bộ đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy, dồn lực xây dựng hạ tầng số và hệ sinh thái dịch vụ công trực tuyến, đặt người dân, doanh nghiệp vào vị trí trung tâm phục vụ.

Hiện nay, Bộ Công Thương và các sở địa phương, đặc biệt khu vực phía Nam đã đưa dịch vụ công trực tuyến mức 4 phủ sóng hầu khắp tỉnh thành, thay thế khung "cửa sổ hành chính" phức tạp trong quá khứ thành giao diện gọn ghẽ trên điện thoại. Cán bộ lẫn người dân, doanh nghiệp dễ dàng tương tác, thao tác nộp hồ sơ, tra cứu và nhận kết quả hoàn toàn trực tuyến, tiết kiệm hàng nghìn giờ chờ đợi, là bước tiến lớn về hiệu năng quản trị và minh bạch.

Nhìn về phía trước, Bộ Công Thương tuyên định sẽ liên tục tinh gọn quy trình, cập nhật công nghệ và mô hình tương tác mới, bảo đảm mỗi đổi thay của kỷ nguyên số đều kịp thời chuyển hóa thành tiện ích, nâng tầm trải nghiệm công dân, doanh nghiệp và gia cố bệ phóng tăng trưởng quốc gia.

Cùng lúc đó, Nghị quyết 57 cũng đặt sự ưu tiên, chú trọng phát triển đến lĩnh vực thương mại điện tử (TMĐT), nơi được ví như đại lộ phân phối tối tân của thời đại. Chính phủ đặt ra mục tiêu tham vọng, đến năm 2030, doanh số bán lẻ trực tuyến phải duy trì đà tăng trưởng 20 - 30%/năm, qua đó nâng tỷ trọng TMĐT lên 20% tổng mức bán lẻ toàn quốc, tiếp tục là kênh phân phối chủ lực của nền kinh tế số.

Đây sẽ là bước nhảy lớn, gấp hơn hai lần hiện tại, đòi hỏi sự phát triển mạnh về hạ tầng thanh toán số, logistics TMĐT và mở rộng thị trường TMĐT hơn nữa tại các địa phương. Đối diện nhiệm vụ cam go, Bộ Công Thương đã chủ động vạch sẵn những phương án hành động bài bản, gắn chặt thực tiễn, trong đó lấy việc sửa đổi Luật TMĐT làm trục xoay chiến lược.

Dự thảo luật mới không chỉ dựng khung pháp lý cho kỷ nguyên mua sắm số, mà còn hóa thân thành "lưỡi gươm" trấn áp hàng giả, hàng nhái, buôn lậu, gột rửa những góc khuất thị trường. Qua đó, Bộ chủ động thanh lọc dòng chảy thương mại, mở rộng dư địa cho doanh nghiệp chính trực phát triển, đúng tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về thúc đẩy kinh tế tư nhân thành động lực chủ đạo.

Chuyển đổi xanh: Nhân ba công suất điện tái tạo

Trên chặng đường phát triển 2025 - 2030, chuyển đổi xanh với sứ mệnh kiến tạo nền kinh tế carbon thấp, bền vững, được đánh giá là trụ cột trọng yếu thứ hai bên cạnh chuyển đổi số. Nhìn lại chặng đường qua, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ của điện mặt trời, điện gió nở rộ nhờ cơ chế và các chính sách ưu đãi, mau chóng bổ sung hàng chục nghìn MW và chiếm xấp xỉ 30% tổng công suất hệ thống điện quốc gia. Dẫu vậy, dư địa khai phá vẫn còn mênh mang.

Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh vừa hạ bút đã nâng mục tiêu công suất năng lượng tái tạo lên tầm cao mới. Đến năm 2030, công suất điện mặt trời dự kiến đạt 46.000 - 73.000 MW; điện gió trên bờ 26.000 - 38.000 MW; đi kèm 6.000 MW điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu nội địa. Nói cách khác, đất nước xác lập cột mốc gấp ba lần công suất năng lượng tái tạo hiện hữu, hướng tới một hệ sinh thái điện năng "xanh hóa", bền vững trong thập niên tới.

Riêng khu vực miền Nam, trước mắt sẽ bổ sung thêm 3.000 MW nguồn tái tạo vào lưới điện miền Nam trong ba năm kế tiếp (2028), nhằm đảm bảo cung ứng điện cho vùng kinh tế trọng điểm và thay thế dần nguồn điện than.

Theo Bộ Công Thương, tại đây, trung tâm năng lượng tái tạo phía Nam (lấy TP. Hồ Chí Minh và Khánh Hòa làm lõi) sẽ được kiến tạo đồng bộ, hấp dẫn những đại dự án điện gió, điện mặt trời gắn liền chuỗi giá trị sản xuất thiết bị, dịch vụ hậu cần cùng cảng chuyên dụng cho năng lượng sạch.

Không chỉ kiến tạo nguồn năng lượng sạch, việc cắt giảm khí nhà kính cũng chính là thước đo quyết định thành bại của hành trình chuyển đổi xanh

Không chỉ kiến tạo nguồn năng lượng sạch, việc cắt giảm khí nhà kính cũng chính là thước đo quyết định thành bại của hành trình chuyển đổi xanh

Sự ra đời của trung tâm năng lượng tái tạo liên vùng còn mở lối xuất khẩu điện khu vực thông qua tuyến nối Lào, Campuchia; đồng thời ươm mầm các dạng năng lượng mới như hydro xanh và amoniac xanh. Theo tầm nhìn đến 2030, lượng điện xuất khẩu sang Campuchia sẽ đạt 400 MW; bước sang giai đoạn 2035, tham vọng nâng lên 5.000 - 10.000 MW xuất khẩu sang Singapore và Malaysia, đặt dấu mốc khẳng định vị thế Việt Nam trước các đối tác khu vực.

Không chỉ kiến tạo nguồn năng lượng sạch, việc cắt giảm khí nhà kính cũng chính là thước đo quyết định thành bại của hành trình chuyển đổi xanh. Trên trường quốc tế, Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ, đó là đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero), hòa nhịp cùng lộ trình giảm phát thải toàn cầu. Trước đó ấn định đến năm 2030, chúng ta sẽ hạ tối thiểu 15% cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP so với nền năm 2014.

Để hiện thực hóa cam kết, Việt Nam đang triển khai chùm giải pháp liên hoàn, từ chuyển đổi nhiên liệu trong công nghiệp và giao thông, ưu tiên xe điện và nguồn năng lượng sạch; xây dựng kinh tế tuần hoàn ở các ngành sản xuất, tận thu tài nguyên, tái chế chất thải và gia tăng che phủ rừng, ứng dụng công nghệ carbon thấp.

Với vai trò "mũi nhọn", dưới sự tư vấn và đồng hành của Bộ Công Thương, nhiều địa phương, doanh nghiệp đã tiên phong áp dụng mô hình khu công nghiệp sinh thái, sử dụng điện mặt trời áp mái, xe điện, sản xuất xanh… góp phần đưa các chỉ số phát thải của Việt Nam giảm dần.

Mới đây, khu vực Bình Dương (cũ) đã khởi công 2 khu công nghiệp xanh (Cây Trường 700ha và Bàu Bàng mở rộng 380ha) được xây dựng theo mô hình sinh thái thông minh, phát thải thấp, tích hợp năng lượng tái tạo ngay từ đầu.

Các khu công nghiệp này sẽ lắp đặt điện mặt trời áp mái, có trang trại điện mặt trời và hệ thống lưu trữ để tự chủ nguồn cung điện sạch, giảm tải cho lưới điện quốc gia. Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính khi dự lễ khởi công đã nhấn mạnh: Chính phủ xem phát triển bền vững, kinh tế xanh và chuyển đổi số là những trụ cột chiến lược đưa đất nước tiến lên mạnh mẽ trong thời kỳ mới.

Điều đó thể hiện sự cam kết ở tầm vĩ mô rằng chuyển đổi xanh sẽ được ưu tiên xuyên suốt, từ trung ương đến địa phương, trong cả hoạch định chính sách và triển khai thực tiễn.

Từ những nỗ lực đó, chúng ta hoàn toàn có quyền kỳ vọng Việt Nam đến năm 2030 sẽ hoàn thành các mục tiêu giảm phát thải, phát triển những mô hình kinh tế xanh tiêu biểu trong khu vực, giải quyết bài toán điện năng và mang lại lợi thế cạnh tranh mới cho doanh nghiệp nội địa, giữa bối cảnh thế giới đang càng đề cao tiêu chí phát triển bền vững.

Liên kết vùng: 'Thổi bùng' nội lực thương mại

Trên lộ trình phát triển 2025 - 2030, hạ tầng kết nối vùng và logistics trỗi dậy là động lực quan trọng thứ ba, làm "chất xúc tác" giữa tăng trưởng liên kết vùng và gia tăng sức bật thương mại - xuất nhập khẩu. Ở cực Nam - đầu tàu kinh tế quốc gia, đang chứng kiến hàng loạt đại dự án giao thông được thần tốc triển khai, hứa hẹn tháo gỡ nút thắt lưu thông, "khâu nối" các hành lang kinh tế và bơm thêm xung lực hợp lực vùng trong nửa cuối thập kỷ này.

Chẳng hạn như: Dự án đường Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh (dài 76km, đi qua TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An - cũ), dự kiến hoàn thiện toàn bộ vào năm 2026 để kịp kết nối với mục tiêu thông 3.000km cao tốc toàn quốc vào 2030; tuyến đường ven sông Sài Gòn (dài khoảng 78km, từ Củ Chi men theo sông Sài Gòn qua Thuận An, Thủ Dầu Một xuống đến huyện Cần Giờ và nối cao tốc Bến Lức - Long Thành); cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1 dài 74km, kết nối Đồng Nai (vùng đô thị Biên Hòa) tới cụm cảng Cái Mép - Thị Vải và TP. Vũng Tàu - cũ), theo kế hoạch thông xe vào năm 2026.

Dưới nước, hệ thống hạ tầng đường thủy và cảng biển phía Nam cũng đang nâng tầm, sánh ngang với các tên tuổi quốc tế lớn. Điển hình, Cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải vừa ghi dấu ấn khi vươn lên thứ 7 thế giới về hiệu quả khai thác theo Chỉ số CPPI 2023 của Ngân hàng Thế giới và S&P Global, vượt mặt nhiều cảng trung chuyển trọng yếu như Yokohama, Hồng Kông hay Singapore.

Cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải

Cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải

Hiện thời, cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải quy tụ 22 bến đang vận hành, đủ sức đón "siêu tàu" container tới 214.000 DWT (24.000 TEU). Nhờ đó, nhiều hãng vận tải biển hàng đầu đã mở tuyến trực tiếp từ Cái Mép sang châu Âu và Mỹ. Để gia cố ưu thế cửa ngõ, các doanh nghiệp khai thác cảng đang ráo riết bơm vốn mở rộng cầu bến, hiện đại hoá trang thiết bị và hạ tầng số, gia tăng công suất xếp dỡ, sẵn sàng đón dòng chảy thương mại ngày càng lớn.

Có thể thấy, bức tranh giai đoạn 2025 - 2030 của Việt Nam nói chung và vùng kinh tế phía Nam nói riêng đang hiện lên với những gam màu tươi sáng nhờ chuyển đổi số toàn diện trong quản lý và thương mại, chuyển đổi xanh trong sản xuất - năng lượng, và hệ thống hạ tầng logistics kết nối đồng bộ, hiện đại.

Các dữ liệu và chỉ dấu thực tế, từ dịch vụ công trực tuyến đạt độ phủ tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng TMĐT trên 20%, đến công suất hàng chục GW điện tái tạo bổ sung, và thứ hạng cảng biển vươn lên Top 7 thế giới, đều đang cho thấy sự vươn mình mạnh mẽ của nước ta.

Dẫu vậy, phía trước cũng còn không ít chông gai, yêu cầu nguồn lực đầu tư khổng lồ, đòi hỏi cách tân tư duy quản trị và sự đồng lòng của toàn xã hội. Song với khung chính sách minh định và quyết tâm thống nhất từ trung ương tới địa phương, hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng những trụ cột chiến lược ấy sẽ thành hiện thực, đưa Việt Nam bước vững tới thập kỷ bứt phá.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết