3 dự án cao tốc tổng quy mô 115.000 tỷ đồng được khởi công trong cùng một ngày
Ba dự án này nằm trong chuỗi các dự án trọng điểm ngành giao thông được khởi công trong tháng 6/2023. Tính chung từ năm 2021 đến hết tháng 6/2023, cả nước đã đưa vào khai thác thêm 566 km đường cao tốc và đã khởi công, đang thi công 1.756 km cao tốc.
Sáng 18/6, tại TPHCM, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự lễ khởi công 3 dự án cao tốc với tổng chiều dài khoảng 247 km và tổng mức đầu tư khoảng 115.000 tỷ đồng.
Các dự án gồm: Đường Vành đai 3 TPHCM và hai cao tốc trục ngang Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Biên Hòa-Vũng Tàu.
Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 TP.HCM có tổng chiều dài hơn 76 km đi qua 4 địa phương TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Dự án được phân chia làm 8 dự án thành phần, mỗi tỉnh, thành phố thực hiện 2 dự án gồm giải phóng mặt bằng và xây lắp. Theo kế hoạch, Dự án đường Vành đai 3 TPHCM sẽ cơ bản hoàn thành năm 2025 và đưa vào khai thác từ năm 2026.
Trong giai đoạn hoàn chỉnh, Dự án được đầu tư quy mô 8 làn xe cao tốc, cấp đường ô tô cao tốc 100 km/h; đường song hành hai bên (đường đô thị 2 - 3 làn xe), cấp đường ô tô đô thị 60 km/h. Giai đoạn phân kỳ, Dự án được đầu tư quy mô 4 làn xe cao tốc, đường song hành hai bên (đường đô thị 2 - 3 làn xe), đầu tư không liên tục. Sơ bộ tổng mức đầu tư dự án là 75.378 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương và ngân sách các địa phương.
Dự án cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột có tổng chiều dài khoảng 117,5 km, tổng mức đầu tư gần 22.000 tỷ đồng. Dự án được chia làm 3 dự án thành phần, do tỉnh Khánh Hòa, Bộ GTVT và tỉnh Đắk Lắk làm cơ quan chủ quản.
Theo kế hoạch, dự án cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột giai đoạn 1 sẽ cơ bản hoàn thành một số đoạn tuyến có lưu lượng giao thông lớn năm 2025, cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2026 và hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ toàn dự án năm 2027.
Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 có tổng chiều dài gần 54 km. Giai đoạn 1, Dự án được đầu tư quy mô 4 - 6 làn xe theo từng đoạn tuyến, vận tốc thiết kế 100 km/h. Giai đoạn hoàn thiện, tuyến cao tốc sẽ được mở rộng bảo đảm quy mô 6-8 làn xe. Tổng mức đầu tư chung dự án là 17.837 tỷ đồng.
Dự án được chia thành 3 dự án thành phần do tỉnh Đồng Nai, Bộ GTVT và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm cơ quan chủ quản. Theo lộ trình đề ra, Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 sẽ cơ bản hoàn thành năm 2025 và hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ toàn dự án năm 2026.
Ba dự án này nằm trong chuỗi các dự án trọng điểm ngành giao thông được khởi công trong tháng 6/2023. Trong đó, Dự án Châu Đốc- Cần Thơ - Sóc Trăng vừa khởi công ngày 17/6; dự kiến ngày 25/6 sẽ tiếp tục khởi công Dự án đường vành đai 4 - Vùng Hà Nội với chiều dài hơn 112 km, tổng mức đầu tư hơn 85.000 tỷ đồng, cao tốc Cao Lãnh - An Hữu (nối Đồng Tháp – Tiền Giang) với chiều dài 27 km, tổng mức đầu tư gần 6.000 tỷ đồng, kết nối 2 tuyến cao tốc huyết mạch của vùng ĐBSCL.
Có thể hoàn thành mục tiêu 3.000 km cao tốc vào năm 2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ đây là 3 dự án quan trọng quốc gia ngành GTVT, được chủ trương của Bộ Chính trị, sự phê chuẩn của Quốc hội, sự đồng hành của các địa phương và sự ủng hộ của nhân dân.
Trong giai đoạn 2000 - 2021, cả nước mới đầu tư đưa vào khai thác 1.163 km đường bộ cao tốc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu cả nước có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc. Như vậy, giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030, cần phải triển khai đầu tư, xây dựng gấp gần 4 lần số km đường bộ cao tốc đã xây dựng trong hơn 20 năm trước. Trong đó, đến 2025, cần đạt được ít nhất 3.000 km cao tốc và giai đoạn 2026 - 2030 phấn đấu có thêm 2.000 km nữa.
Để triển khai chủ trương của Đảng về phát triển đường cao tốc, Chính phủ đã trình Quốc hội phê chuẩn và chỉ đạo các bộ, ngành địa phương đẩy nhanh tiến độ đầu tư hoàn thiện toàn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông nối liền từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Cà Mau, kết nối trung tâm chính trị Thủ đô Hà Nội và trung tâm kinh tế TPHCM; tiếp tục nghiên cứu triển khai các tuyến cao tốc trục ngang và các tuyến đường vành đai đi qua địa bàn nhiều tỉnh, thành phố, bảo đảm tính đồng bộ kết nối thông suốt các vùng và cả nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của tất cả các khu vực, vùng miền và cả nước.
Thủ tướng cho biết, từ đầu nhiệm kỳ (2021) đến nay, cả nước đã khánh thành và đưa vào khai thác thêm 566 km đường cao tốc, nâng tổng số đường cao tốc đang khai thác của cả nước lên 1.729 km.
Các dự án đang thi công với tổng chiều dài 350 km gồm: 5 dự án thành phần thuộc cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 dài 229 km; dự án Mỹ Thuận - Cần Thơ 23 km; dự án Bến Lức - Long Thành 58 km; dự án Tuyên Quang - Phú Thọ 40 km.
Các dự án khởi công từ đầu năm 2023 có tổng chiều dài 1.406 km, gồm: 12 dự án thành phần thuộc đường cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021 - 2025 dài 729 km; cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang 104 km; cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng 188 km; Vành đai 3 TP.HCM 76 km; cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu 53,7 km; cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột 117 km; Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội trên 112 km; cao tốc Cao Lãnh - An Hữu 27 km.
Như vậy, cùng với 1.729 km đã đưa vào khai thác và tổng chiều dài đường cao tốc của các dự án đang thi công, đã khởi công đến hết tháng 6/2023 là 1.756 km. "Nếu quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt thì cơ bản chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu cả nước có trên 3.000 km vào năm 2025", Thủ tướng phát biểu.
Bên cạnh đó, một số dự án phấn đấu sẽ khởi công từ nay đến năm 2024 có tổng chiều dài khoảng 284 km, gồm: Cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu 65 km; cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh 93 km; cao tốc Dầu Giây - Tân Phú 60 km; cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc 66 km và nhiều dự án đường bộ cao tốc đang được Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục trình cấp thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư (Hữu Nghị - Chi Lăng, Mộc Châu - Sơn La, TPHCM- Mộc Bài; TPHCM- Chơn Thành, Chơn Thành - Gia Nghĩa, Bảo Lộc - Liên Khương…). Đây là tiền đề để thực hiện thành công mục tiêu 5.000 km cao tốc vào năm 2030.
Thủ tướng cho biết trong nhiệm kỳ này, sẽ huy động khoảng 500.000 tỷ đồng cho các dự án hạ tầng giao thông, gồm ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, nguồn tăng thu, tiết kiệm chi, nguồn vốn đầu tư công trung hạn, nguồn vốn từ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, các nguồn vốn hợp pháp khác.