Châu Á đang phát triển thích ứng với đồng USD mạnh
Đồng USD đang biến động rất nhanh. Theo Chỉ số USD của Ngân hàng Dự trữ Liên bang St Louis, nó đã tăng khoảng 13% vào năm 2022 so với rổ tiền tệ lớn. Đây là mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Tình thế này buộc nhiều quốc gia châu Á đang phát triển phải tìm cách đưa ra các chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm thích ứng.
Theo CNBC, các nhà kinh tế mới đây nhận định, biết châu Á - đặc biệt là Đông Nam Á - vẫn là một điểm sáng, ngay cả khi nền kinh tế toàn cầu có vẻ sẽ suy thoái vào năm tới. Tháng trước, IMF cho biết, sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ ở châu Á vào đầu năm nay đã mất đà do ba “cơn gió ngược” - đó là lãi suất tăng, cuộc chiến ở Ukraine và tác động của hoạt động kinh tế đang bị suy giảm của Trung Quốc. Tuy vậy, cơ quan này vẫn nhận định trong báo cáo triển vọng mới nhất của mình rằng “châu Á vẫn là một điểm sáng tương đối trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng chìm xuống”. IMF dự đoán tăng trưởng của khu vực châu Á và Thái Bình Dương là 4% trong năm nay và 4,3% vào năm 2023, cả hai đều dưới mức trung bình 5,5% trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, chúng vẫn cao hơn dự báo của quỹ đối với châu Âu và Mỹ. IMF dự kiến tăng trưởng 3,1% vào năm 2022 và 0,5% vào năm 2023 đối với khu vực đồng euro; và tăng trưởng 1,6% trong năm nay và 1% vào năm sau đối với Mỹ. Đặc biệt, theo IMF, Đông Nam Á
Rủi ro và phần thưởng
Theo EAF, đồng yen của Nhật và Nhân dân tệ của Trung Quốc lần lượt ở mức thấp nhất trong hai thập kỷ và 14 năm qua. Năm 2022, USD đã tăng giá bằng 1/5 so với đồng won của Hàn Quốc và hơn 1/10 so với đồng ringgit của Malaysia, peso của Philippines và đồng baht của Thái Lan.
Có nhiều lý do giải thích cho sức mạnh tiềm ẩn của USD. Các thị trường tài chính phản ứng với rủi ro và phần thưởng - và cả hai đều đang thay đổi để hỗ trợ các khoản đầu tư vào Mỹ. Rủi ro tăng cao trên thị trường toàn cầu dẫn đến hiện tượng “bay đến nơi an toàn” có lợi cho tài sản của Mỹ, ngay cả khi cú sốc chính bắt nguồn từ thị trường Mỹ như trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Rủi ro trong nền kinh tế toàn cầu cao chưa từng có. Cũng giống như nền kinh tế thế giới dường như thoát khỏi đại dịch COVID-19, nó hiện phải đối mặt với cuộc chiến lớn đầu tiên ở châu Âu kể từ Thế chiến II, sự biến động trên các thị trường tài nguyên thiên nhiên trọng yếu, lạm phát đình trệ ở các nền kinh tế phát triển và mối đe dọa của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 xuống 3,2%, bằng một nửa mức tăng trưởng thực tế vào năm 2021.
Liên quan đến phần thưởng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất nhiều lần trong năm 2022 để kiềm chế lạm phát. Điều đó làm tăng đáng kể tỷ suất sinh lợi của tài sản an toàn ở Mỹ. Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ là 4,0% vào tháng 10/2022, so với 1,6% vào tháng 1.
Rủi ro toàn cầu và tình trạng không chắc chắn có thể sẽ tồn tại trong một thời gian và Fed dự định sẽ tiếp tục tăng lãi suất cho đến khi lạm phát giảm xuống. Nhiều nhà kinh tế dự đoán, điều này sẽ khiến một cuộc suy thoái diễn ra, song Fed báo hiệu rằng họ quan tâm hơn đến lạm phát vào thời điểm này. Vì vậy, theo một số nhà phân tích, châu Á cần tiếp tục chuẩn bị tinh thần về đồng USD mạnh, ít nhất là trong ngắn hạn.
Có vẻ như điều này không hoàn toàn xấu đối với các nền kinh tế châu Á định hướng xuất khẩu, vì đồng tiền yếu hơn khiến xuất khẩu trở nên cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, một phần lớn xuất khẩu của châu Á lại nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), liên kết chuỗi giá trị của châu Á chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch thương mại - vì vậy xuất khẩu rẻ hơn sẽ được bù đắp bởi đầu vào nhập khẩu đắt hơn. Tỷ trọng thương mại trong GDP của Việt Nam đã tăng từ 19% vào năm 1989 lên 209% vào năm 2020, với phần lớn thương mại của Việt Nam được đưa vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đồng tiền yếu đi trong các nền kinh tế mở cũng làm tăng mặt bằng giá. Quan trọng hơn, dòng vốn chảy sang các thị trường dựa trên USD có tác động tiêu cực đến đầu tư trong nước, càng trở nên trầm trọng hơn do rủi ro gia tăng vì tỷ giá hối đoái biến động.
Ngân hàng trung ương của các nền kinh tế có chế độ tỷ giá hối đoái “thả nổi có quản lý”, giống như hầu hết các nước châu Á, có thể can thiệp để giảm sự biến động đồng tiền của họ. Điều này có nghĩa là dự trữ ngoại hối sẽ giảm. Hầu hết các Ngân hàng trung ương Đông Á đã giữ rất nhiều dự trữ ngoại hối kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, bảo vệ họ trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cú sốc từ đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, việc cạn kiệt nguồn dự trữ nhanh chóng có thể làm tăng tình trạng không chắc chắn. Điều này có thể khuyến khích các nền kinh tế Đông Á tích luỹ mức dự trữ cao hơn trong tương lai. Đồng tiền giảm giá cũng làm tăng chi phí trả nợ bằng đồng USD, vốn là mối quan tâm quan trọng đối với một số nền kinh tế Nam Á và Đông Nam Á.
Các Ngân hàng trung ương của khu vực không có lựa chọn nào khác ngoài việc thắt chặt thị trường của chính họ, giảm giá đồng tiền của họ và bán dự trữ tiền tệ bằng USD, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản trừ khi bị triệt tiêu.
Cần chính sách tiền tệ linh hoạt hơn
Chính sách tiền tệ co giãn hơn sẽ làm giảm đầu tư và tiêu dùng trong nước, cho thấy rằng các nền kinh tế sẽ phải tham gia vào việc quản lý tổng cầu theo hướng đổi mới, bao gồm cả chính sách tài khóa, trong chừng mực họ có không gian tài khóa để làm như vậy. Đây là hướng đi mà các nền kinh tế đang phát triển Đông Á đang thực hiện và hầu hết đều thích ứng tốt. Nhiều đồng tiền tệ đang giảm giá vừa phải trong hầu hết các trường hợp. Lãi suất đang tăng - có lẽ không tránh khỏi lạm phát gia tăng - và dự trữ ngoại hối đang giảm.
Bản cập nhật tháng 9/2022 của ADB dự báo tăng trưởng 5,1% cho Đông Nam Á - tăng nhẹ so với dự báo tháng 4. Tăng trưởng của Trung Quốc trong quý III đạt 3,9%, vượt quá kỳ vọng và tăng từ mức tăng trưởng 2,5% trong nửa đầu năm. Lo ngại suy thoái kinh tế, chính quyền Bắc Kinh đã kiềm chế việc tăng lãi suất, thay vào đó tập trung vào việc bảo vệ đồng Nhân dân tệ đang suy giảm. Đồng Nhân dân tệ giảm giá sẽ gây áp lực lên cạnh tranh tiền tệ của các nền kinh tế Đông Á cạnh tranh với Trung Quốc tại các thị trường thứ ba.
Tăng trưởng ở Nam Á được dự báo là 6,5%, nhưng kết quả hoạt động giữa các nền kinh tế là trái ngược nhau. Ấn Độ dường như đang hoạt động tốt so với Đông Bắc Á, với đồng rupee giảm giá khoảng 10%. Ngược lại, Sri Lanka đang trải qua một cuộc khủng hoảng không có hồi kết. Pakistan dường như đang dẫn đầu với dự báo tăng trưởng đáng nể là 6% cho năm 2022, nhưng với dự trữ ngoại hối của nước này lại thấp. Mặc dù đã nối lại chương trình của IMF vào tháng 8, đồng tiền của Pakistan đã mất 30% giá trị cho đến nay trong năm nay.
Đồng USD mạnh có thể sẽ tiếp tục trong tương lai gần và các nền kinh tế châu Á cần chuẩn bị cho một năm 2023 khó khăn. Song hầu hết các chính phủ ở châu Á đang phát triển cho đến nay đang thực hiện được công việc đáng ngưỡng mộ là cố gắng “đi trên dây” thăng bằng giữa duy trì tăng trưởng và đối phó với đồng USD mạnh.
Theo CNBC, các nhà kinh tế mới đây nhận định, biết châu Á - đặc biệt là Đông Nam Á - vẫn là một điểm sáng, ngay cả khi nền kinh tế toàn cầu có vẻ sẽ suy thoái vào năm tới.
Tháng trước, IMF cho biết, sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ ở châu Á vào đầu năm nay đã mất đà do ba “cơn gió ngược” - đó là lãi suất tăng, cuộc chiến ở Ukraine và tác động của hoạt động kinh tế đang bị suy giảm của Trung Quốc. Tuy vậy, cơ quan này vẫn nhận định trong báo cáo triển vọng mới nhất của mình rằng “châu Á vẫn là một điểm sáng tương đối trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng chìm xuống”.
IMF dự đoán tăng trưởng của khu vực châu Á và Thái Bình Dương là 4% trong năm nay và 4,3% vào năm 2023, cả hai đều dưới mức trung bình 5,5% trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, chúng vẫn cao hơn dự báo của quỹ đối với châu Âu và Mỹ. IMF dự kiến tăng trưởng 3,1% vào năm 2022 và 0,5% vào năm 2023 đối với khu vực đồng euro; và tăng trưởng 1,6% trong năm nay và 1% vào năm sau đối với Mỹ.
Đặc biệt, theo IMF, Đông Nam Á sẽ có khởi sắc trong tương lai. Theo đó, Việt Nam đang vươn mình trở thành trung tâm của các nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong khi Philippines, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ có thể sẽ tăng trưởng từ 4% đến 6%. Ngoài ra, du lịch ở Campuchia và Thái Lan sẽ tăng lên.
Còn theo ngân hàng DBS, cho đến nay, xuất khẩu từ ASEAN-6 - bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam - đã vượt trội so với Bắc Á và phần còn lại của khu vực.