Ánh sáng soi đường phát triển văn học, nghệ thuật dân tộc Việt Nam thời hiện đại
Truyền thống văn hiến-văn hóa giúp chúng ta nhận thức sâu sắc và đầy đủ về sự phát triển bền vững phải luôn luôn dựa chắc trên nền tảng văn hóa. Dân tộc Việt Nam trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước đã tựa vững trên truyền thống của một nền văn hiến-văn hóa tinh hoa đáng tự hào: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi).
Xác lập các giá trị cốt lõi, nền tảng, bền vững
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 đề ra 3 nguyên tắc vận động văn hóa mới: Dân tộc hóa-Đại chúng hóa-Khoa học hóa. Thứ tự các nguyên tắc không phải được sắp xếp ngẫu nhiên mà là có chủ đích, có tính chiến lược, thể hiện tầm nhìn tương lai của một cương lĩnh-luận cương văn hóa, biểu thị vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 đã hóa thân vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, lý luận cần và đã được kiểm chứng trong quá trình hiện thực hóa. Tháng 4-1943, Hội Văn hóa Cứu quốc được thành lập, hoạt động bên cạnh các tổ chức khác của Mặt trận Việt Minh (thành lập từ năm 1941). Các thành viên của Hội Văn hóa Cứu quốc là những nhà văn tài năng như: Học Phi (Chủ tịch), Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi, Thép Mới. Các đồng chí được Đảng cử lãnh đạo Hội Văn hóa Cứu quốc như: Lê Quang Đạo, Trần Độ, Vũ Quốc Uy, Trần Quốc Uy đều là những trí thức có tầm và tâm nên hòa hợp được với văn nghệ sĩ, khéo léo và mềm mỏng trong ứng xử nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo trên lập trường chính trị mác-xít. Thực tiễn đã chứng minh sức thuyết phục của 3 nguyên tắc vận động văn hóa trong bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam" năm 1943 của Đảng mang tính khai phóng, như cách chúng ta gọi là “kim chỉ nam” cho hoạt động văn hóa, văn học. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh một vấn đề: Vì sao các nhà văn theo khuynh hướng sáng tác hiện thực chủ nghĩa trước năm 1945 (như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Kim Lân, Bùi Hiển...) lại nhạy cảm hơn với diễn biến thời cuộc “một ngày bằng hai mươi năm”, đến với cách mạng sớm hơn so với các nhà văn theo khuynh hướng sáng tác lãng mạn chủ nghĩa (như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên...)?
Vở ballet "Kiều" lấy cảm hứng từ kiệt tác "Truyện Kiều" của Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: THANH TÙNG |
Không khó giải thích hiện trạng này nếu chúng ta thống nhất nhận định: Các nhà văn hiện thực do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, có nhiều cơ hội gần gũi nhân dân lao động nghèo khổ hơn nên dễ chia sẻ những nỗi thống khổ, lầm than với đồng loại cùng cảnh ngộ của những người “áo ngắn”. Có thể là một kết quả tất yếu khi nhà văn gần gũi và cảm thông với nhân dân lao động nghèo khổ thì lòng yêu nước cũng dễ dàng bắt rễ từ đó. Lòng yêu nước như một lò lửa, một đôi cánh nâng tinh thần dân tộc bay lên trong thời đại bão tố cách mạng với ý nghĩa như là “ngày hội của quần chúng” (V.I.Lenin). Thực tiễn văn học đã chứng minh: Tác phẩm của các nhà văn hiện thực dễ đến với người lao động hơn tác phẩm của các nhà văn lãng mạn trong nhóm Tự lực văn đoàn hay các thi sĩ trong phong trào Thơ mới. Đó là một thực tế khách quan không thể không công nhận.
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” là khẩu hiệu có tính chiến lược được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (11-1946). Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (7-1948), khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa. Văn hóa hóa kháng chiến” được quán triệt đầy đủ và sâu sắc. Trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951”, Người khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Khái niệm “văn hóa mới” hình thành trong bối cảnh đấu tranh cách mạng được hiểu như là đồng nghĩa với “văn hóa cứu quốc”, “văn hóa yêu nước”. Những nội hàm này trùng phùng với tính chất của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tiến hành thành công trong suốt chiều dài lịch sử 1930-1945: Độc lập dân tộc và dân chủ xã hội. Trong “Thư gửi Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai” (7-1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng”. Nếu hiểu đó là lời hiệu triệu văn hóa thì rõ ràng “gánh một phần rất quan trọng” chính là sứ mệnh của văn hóa, như Người khẳng định: “Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”.
Cùng trong sự kiện Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (7-1948), đồng chí Trường Chinh đã đọc báo cáo “Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” (sau này khi in thành sách có tên “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”), trong đó nhấn mạnh: “Về xã hội lấy giai cấp công nhân làm gốc. Về chính trị, lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc”. Đường lối chung (nguyên tắc/chiến lược) là không thay đổi. Nhưng sự vận dụng (sách lược/chiến thuật) thì mềm dẻo, uyển chuyển, phù hợp với thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể để đề cao, nhấn mạnh, tập trung vào từng yêu cầu nhiệm vụ đối với văn học-nghệ thuật và văn nghệ sĩ. Tất cả chuyển động trên một đại lộ-độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
“Văn hóa còn thì dân tộc còn” là tinh thần chủ đạo trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ ba (11-2021) của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nền văn hóa mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Đảng đã đánh giá cao sự đóng góp của văn học-nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc suốt chiều dài lịch sử 1945-1975: “Xứng đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hóa văn nghệ chống đế quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay”.
Ngay sau Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ ba (11-2021), những chủ trương, chính sách văn hóa lớn của Đảng và Nhà nước đã đi vào thực tiễn, hướng tới các trọng tâm chiến lược: Xây dựng nhân cách văn hóa, vì “tột cùng văn hóa là con người”; xây dựng không gian văn hóa nhân văn, vì “Muốn con người trở nên nhân đạo hơn thì phải tạo ra hoàn cảnh nhân đạo hơn” (C.Mác); triển khai công nghiệp văn hóa, đầu tư đào tạo tài năng văn học-nghệ thuật, đẩy mạnh xuất khẩu văn hóa... Nói cho cùng, nếu nhân loại gần 8 tỷ người biết đến Việt Nam thì trước hết biết đến một đất nước có truyền thống văn hiến-văn hóa-văn học hơn là một trong những đầu tàu hay điển hình kinh tế tăng trưởng tương lai của khu vực trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập ngày càng sâu rộng. Không phải ngẫu nhiên khi Giáo sư Ahn Kyong-hwan, Đại học Chosun (Hàn Quốc), dịch giả kiệt tác “Truyện Kiều” của Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du sang tiếng Hàn Quốc, đã xác tín: “Việt Nam là một đất nước văn hiến mãi mãi vì có tác phẩm Truyện Kiều bất hủ”. Vì lẽ đó, mọi nỗ lực tối đa, cuối cùng của chúng ta là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên nền tảng văn hóa phát triển bền vững.
Tiệm tiến văn hóa - đại lộ văn học Việt Nam hiện đại
Tiếp biến văn hóa là quy luật tồn tại của bất kỳ nền văn hóa nào từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Trong thế giới phẳng-mở trên nền tảng toàn cầu hóa, không gian mạng và số hóa thì động hướng hội nhập ngày càng sâu rộng là tất yếu, khách quan. Nhưng như một quá trình kép, hội nhập văn hóa đồng thời phải đi liền với bảo hộ văn hóa. Ngoại lực và nội sinh luôn luôn như hai mặt của một tờ giấy. Nhìn bình tĩnh sẽ thấy tiếp biến văn hóa đang nảy sinh vấn đề mất cân đối giữa tiếp thu có lựa chọn thông minh và ứng dụng sáng tạo. Văn hóa Việt hiện nay nói chung đang có xu hướng “Âu-Mỹ hóa” (như cách người ta nói về một “giấc mơ Mỹ”), rõ nhất là trong tâm thức và hành xử của người trẻ, bởi họ có nỗi niềm chung khi muốn trở/hóa thành “công dân toàn cầu”. Không có gì là không đúng. Nhưng cái đúng và cái hay lại đôi khi khập khiễng, không song hành, không hô ứng. Vấn đề bản sắc văn hóa đang được đặt lên bàn nghị sự ở tầm quốc gia.
Tiếp biến văn hóa đích thực là dựa trên nền tảng của tiến hóa, tiến bộ, phát triển bền vững, nếu không đúng phương hướng lớn (có tính khai phóng/khai sáng) như thế thì còn lại chỉ có thể là ‘tiếp thu”, “tiếp nhận” có tính thụ động, bị động, nhất thời, cục bộ. Rất có thể chúng ta đang mải mê vượt khó, vượt nghèo, vượt “bẫy thu nhập trung bình” nên vô thức (hay là ý thức) xem nhẹ hiệu năng, hiệu lực của văn hóa-vốn được xem là “tay phanh” điều tiết xã hội, còn kinh tế là “tay ga” tăng tốc, tăng trưởng.
Giấc mơ văn hóa có tính vĩnh hằng với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trong lịch sử loài người. Nói gần hơn cả là giấc mơ về những văn sản để đời với nhân loại trong nghệ thuật ngôn từ như “Đường thi” của Trung Quốc, “Chiến tranh và hòa bình” của Nga, “Những người khốn khổ” của Pháp... Nhưng giấc mơ văn hóa nhân văn về một nền văn học xanh có lẽ gần gũi, thiết thực, khả thi hơn cả với chúng ta. Trong lĩnh vực kinh tế đã có phương châm “không đánh đổi kinh tế lấy môi trường”. Một trong những tiêu chuẩn của một quốc gia sống hạnh phúc là “môi trường xanh”. Chiến dịch trồng 1 tỷ cây xanh được Nhà nước phát động và được toàn dân hưởng ứng nồng nhiệt gần đây lẽ nào không “phả” vào văn hóa, văn học-nghệ thuật một luồng sinh khí mới? Con người là một phần của tự nhiên (cũng có thể nói chính xác hơn con người là tự nhiên). Trong quá khứ, con người đã đối xử thiếu thiện chí với bà mẹ tự nhiên vĩ đại nên đôi lúc nhận hậu quả của thiên tai chính từ nhân tai. Mơ ước về một nền “văn học xanh” đang nhen nhóm và có cơ hội triển nở khi nhà văn nhận lấy sứ mệnh, bằng ngôn từ văn học, tô điểm cái đẹp cho thế giới bằng màu xanh thắm của tự nhiên và màu xanh trong của tâm hồn con người. Thật thú vị khi Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm vừa qua đã trao cho tập truyện ngắn “Người bay trong gió xanh” của nhà văn Phạm Duy Nghĩa. Tiếp nối các bậc tiền nhân gắng gỏi chắt chiu và giữ gìn "văn học xanh" từ Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thành Long, Đoàn Giỏi, Nguyễn Minh Châu... đã có những người chạy tiếp sức như các nhà văn: Đỗ Chu, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Thế Hùng, Phạm Duy Nghĩa...
Đưa dân tộc hòa nhập nhân loại bằng những kỳ đài văn hóa-danh nhân văn hóa thế giới, xét cho cùng chính là một giấc mơ văn hóa Việt Nam thời hiện đại (thế kỷ 20, 21). Năm 2021, danh sách các Danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam được nối dài thêm bằng tên tuổi của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và nhà văn Nguyễn Đình Chiểu. Tự hào cao, đồng thời trách nhiệm càng cao trước nhân loại khi Việt Nam với biểu tượng Hồ Chí Minh-biểu thị của “nền văn hóa tương lai” như cách thể hiện tiên tri của nhà báo, nhà văn tài năng người Nga O.Mandelstam đã viết về Người cách nay đúng 100 năm, trong bài báo nổi tiếng “Thăm một chiến sĩ Quốc tế Cộng sản-Nguyễn Ái Quốc” (đăng trên báo Ngọn lửa nhỏ, số 39, ra ngày 23-12-1923).
Nhà lý luận phê bình văn học BÙI VIỆT THẮNG