90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến
90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh
Sáng 25/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết mục tiêu của chương trình nhằm nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở.
Đồng thời, giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, tổng kinh phí thực hiện chương trình trong 10 năm (giai đoạn 2026-2035) là 125.478 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng (ngân sách Trung ương 68.000 tỷ đồng, ngân sách địa phương 20.041 tỷ đồng). Tổng vốn giai đoạn 2031-2035 dự kiến 36.843 tỷ đồng.
Chương trình đặt ra các mục tiêu cụ thể, gồm: Góp phần nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035. Tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học đến năm 2030 đạt 100%.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với ít nhất 1 kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe đạt 50% vào năm 2030 và đạt 80% vào năm 2035.
Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030. Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, chương trình chia làm 5 dự án thành phần, bao gồm: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở; nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; dân số và phát triển (khuyến khích các cặp vợ chồng, cá nhân sinh đủ hai con; thu hẹp khoảng cách mất cân bằng giới tính khi sinh;…); nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế; truyền thông y tế, quản lý, theo dõi và giám sát thực hiện chương trình.
Bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu
Thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh nhấn mạnh, Ủy ban cơ bản tán thành với tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026-2035, mục tiêu và các dự án thành phần của chương trình theo đề xuất của Chính phủ.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh
Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện 2 mục tiêu quan trọng của chương trình là chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển, đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng.
Cùng với đó, tiếp tục rà soát mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, các nội dung hoạt động của từng tiểu dự án để bảo đảm tính thống nhất, lô-gic theo nguyên tắc quản lý dựa trên kết quả, thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của Chương trình. Các mục tiêu cụ thể cần được xây dựng, cụ thể hóa trên cơ sở mục tiêu chung, có các chỉ tiêu cụ thể để bảo đảm đánh giá được kết quả thực hiện mục tiêu chung của Chương trình.
Ngoài ra, cần rà soát các giải pháp, xác định nguồn lực, tiến độ thực hiện để bảo đảm đạt được các mục tiêu; giải pháp phải gắn với mục tiêu, chỉ tiêu của từng dự án và tiểu dự án thành phần; làm rõ căn cứ đề xuất, xây dựng một số mục tiêu, tính khả thi và giải pháp thực hiện một số mục tiêu.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá và Xã hội cũng đề nghị rà soát, lựa chọn những nội dung cốt lõi, quan trọng, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực. Các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của các tiểu dự án phải bảo đảm thống nhất giữa mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể và nội dung hoạt động, có các chỉ số cụ thể, dễ kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện.
Bộ trưởng Bộ Y tế nêu rõ, đối tượng thụ hưởng của Chương trình: Toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng; người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.

