Hoàn thiện quy hoạch dầu khí đáp ứng yêu cầu an ninh năng lượng
Viện Dầu khí Việt Nam trình bày phương án điều chỉnh quy hoạch dầu khí với định hướng mới nhằm bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh nhiều biến động.
Định hướng mới trong tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí
Tại Hội thảo Điều chỉnh Quy hoạch Tổng thể về Năng lượng Quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổ chức tại Hà Nội, TS. Nguyễn Văn Tư - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Dầu khí Việt Nam đã trình bày toàn diện phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí. Nội dung báo cáo tập trung vào đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch, đề xuất định hướng mới, các mục tiêu điều chỉnh và giải pháp thực hiện phù hợp với yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Theo Viện Dầu khí Việt Nam, phạm vi điều chỉnh của quy hoạch phân ngành dầu khí gồm toàn bộ các khâu của chuỗi giá trị: tìm kiếm thăm dò, khai thác, công nghiệp khí, chế biến dầu khí và vận chuyển, tồn trữ, phân phối sản phẩm dầu mỏ. Đây là những cấu phần cốt lõi tạo nên nền tảng an ninh năng lượng mà quốc gia cần củng cố trong giai đoạn tới.

TS. Nguyễn Văn Tư - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Dầu khí Việt Nam phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Phương Cúc
TS. Nguyễn Văn Tư cho biết, giai đoạn 2021 - 2024, hoạt động tìm kiếm thăm dò đạt một số kết quả đáng ghi nhận. Cả nước có 6 phát hiện dầu khí mới, tổng gia tăng trữ lượng đạt 58,68 triệu tấn quy dầu; mức tăng trung bình hàng năm đạt 14,7 triệu tấn. Năm 2024, hệ số bù trữ lượng đạt 1,07 lần, tốt nhất trong 10 năm gần đây. Tuy nhiên, các con số này vẫn chưa đáp ứng mục tiêu của Quyết định 893/QĐ-TTg, vốn đặt yêu cầu gia tăng 16 - 22 triệu tấn/năm.
Viện Dầu khí Việt Nam chỉ rõ thách thức lớn nhất hiện nay đến từ quy mô mỏ nhỏ và cận biên, khiến chi phí phát triển tăng cao và khó thu hút đầu tư. Các cấu tạo triển vọng còn lại chủ yếu ở vùng nước sâu, xa bờ hoặc có quy mô nhỏ, rủi ro địa chất cao. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài thấp, từ năm 2018 đến nay, chỉ có một hợp đồng dầu khí mới được ký, trong khi số hợp đồng dầu khí kết thúc hoặc hoàn trả ngày càng tăng.
Trước thực trạng này, Viện Dầu khí Việt Nam đề xuất định hướng đẩy mạnh điều tra cơ bản, tăng khảo sát địa chấn, thúc đẩy xây dựng chính sách ưu đãi đặc biệt thu hút đầu tư quốc tế vào vùng nước sâu, xa bờ, gắn kinh tế với bảo vệ chủ quyền.
Ngoài ra, tăng cường khảo sát địa chấn và địa vật lý tại các vùng nước nông chuyển tiếp và nước sâu xa bờ để làm rõ cấu trúc địa chất; đánh giá chi tiết tài nguyên khí hydrate và dầu khí phi truyền thống làm nguồn dự trữ chiến lược.
Bên cạnh đó, định hướng chuyển dịch sang tìm kiếm bẫy phi cấu tạo, bẫy địa tầng và bẫy hỗn hợp được xác định là giải pháp nâng cao khả năng phát hiện. Ứng dụng công nghệ xử lý dữ liệu địa chấn tiên tiến, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và ứng dụng AI/ML vào thăm dò cũng là trọng tâm giai đoạn tới.
Đối với khai thác, sản lượng dầu thô từ các mỏ hiện hữu đang suy giảm do tài nguyên tại các mỏ hiện hữu cạn kiệt. Hệ số bù trữ lượng thấp (0,62 lần/năm giai đoạn 2016 - 2025) cho thấy công tác gia tăng trữ lượng chưa hiệu quả. Tuy nhiên, dự báo sản lượng khí sẽ tăng trong thời gian tới nhờ đưa vào khai thác các mỏ lớn như Lô B và Cá Voi Xanh. Do đó, Viện đề xuất tập trung tối ưu hoá khai thác tại các mỏ đang vận hành, đồng thời đẩy mạnh đưa các phát hiện mới vào khai thác, đặc biệt tại khu vực nước sâu xa bờ và đối tượng dầu khí phi truyền thống.
Phát triển đồng bộ công nghiệp khí, LNG và chế biến dầu khí
Trong lĩnh vực công nghiệp khí, nhu cầu khí hiện dao động 6,2 - 9,3 tỷ m3, trong đó điện chiếm 65 - 70%, đạm chiếm 16 - 20% và công nghiệp chiếm 15%. Trong tương lai, nhu cầu có thể đạt 10 - 15 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, sản lượng khí khai thác có xu hướng suy giảm trong giai đoạn 2021 - 2024.
Định hướng đặt ra là phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng khí từ thu gom, xử lý đến phân phối; tận thu tối đa khí hiện hữu, thúc đẩy các dự án trọng điểm như Lô B và Cá Voi Xanh; phát triển thị trường khí theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; từng bước hội nhập thị trường khu vực và tăng nhập khẩu khí từ các nước lân cận. Việc xây dựng và vận hành hệ thống đường ống kết nối các trung tâm công nghiệp năng lượng, nhà máy điện và nhà máy đạm được đánh giá là cấp thiết.

Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều đại biểu, chuyên gia trong và ngoài nước. Ảnh: Đinh Tuấn
Đối với LNG, nhu cầu hiện thấp hơn năng lực nhập khẩu nhưng dự báo tăng mạnh giai đoạn 2030 – 2035, đặc biệt phục vụ cho điện LNG với công suất gần 22.524 MW vào năm 2030. Định hướng tập trung vào xây dựng các kho LNG trung tâm có khả năng cung cấp cho nhiều nhà máy điện LNG trong cùng khu vực; triển khai các kho LNG gắn với các trung tâm công nghiệp và khu kinh tế ven biển; đẩy nhanh tiến độ các dự án theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Ở lĩnh vực chế biến dầu khí, thực tế hiện nay sản lượng đáp ứng nhu cầu trong nước mới đạt khoảng 60%, thấp hơn mục tiêu 70% đề ra. Các nhà máy vận hành ổn định song cần tiếp tục tối ưu hóa, đa dạng hóa sản phẩm và tiết giảm chi phí. Định hướng phát triển trong thời gian tới bao gồm đầu tư các dự án chế biến dầu khí mới, thu hút FDI, nâng cấp – mở rộng các nhà máy hiện hữu, tích hợp sâu giữa lọc dầu - hóa dầu - hóa chất và nghiên cứu năng lượng mới như hydrogen, SAF, nhiên liệu sinh học.
Trong vận chuyển, tồn trữ và phân phối, báo cáo nêu rõ mức dự trữ xăng dầu hiện đạt 63 ngày nhập ròng, chưa đáp ứng mục tiêu 75-80 ngày theo Quy hoạch 893, cũng như yêu cầu đạt 90 ngày theo Nghị quyết 70-NQ/TW. Do đó, cần tăng cường dự trữ quốc gia, mở rộng kho cảng, phát triển hệ thống phân phối hợp lý và khuyến khích sử dụng nhiên liệu sinh học.
Điều chỉnh, phát triển không gian theo vùng
Về mục tiêu cụ thể, Viện đề xuất điều chỉnh mục tiêu gia tăng trữ lượng giai đoạn 2021 - 2030 xuống mức 13 - 17 triệu tấn quy dầu/năm, phù hợp hơn với thực tiễn; điều chỉnh mục tiêu khai thác dầu thô giai đoạn 2026 - 2030 lên mức 7 - 9,5 triệu tấn/năm; điều chỉnh mục tiêu thị trường khí phù hợp với Nghị quyết 70; phát triển hoàn chỉnh hệ thống LNG trung tâm; tiếp tục duy trì yêu cầu sản xuất xăng dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước. Mục tiêu dự trữ xăng dầu được đề xuất nâng lên mức 90 ngày nhập ròng vào năm 2030.
Đáng chú ý, phương án phát triển theo vùng được xây dựng dựa trên đặc thù từng khu vực. Tại vùng núi trung du Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng, nguồn cung khí thấp, mỏ khí nhỏ và rải rác nên giải pháp chính là nhập khẩu LNG và phân phối qua đường ống hoặc CNG. Khu vực Bắc Trung Bộ ưu tiên phát triển kho LNG và mở rộng Lọc hóa dầu Nghi Sơn. Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên tập trung phát triển LNG Sơn Mỹ, mở rộng Dung Quất. Đông Nam Bộ định hướng hình thành Trung tâm Công nghiệp - Năng lượng Long Sơn - Sao Mai Bến Đình và mở rộng kho LNG Thị Vải. Đồng bằng sông Cửu Long tập trung phát triển cảng LNG và tận dụng hạ tầng Khí - Điện - Đạm để xây dựng trung tâm công nghiệp - năng lượng.
TS. Nguyễn Văn Tư cũng nêu danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên, trong đó có các dự án tìm kiếm thăm dò tại các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Sông Hồng, Malay - Thổ Chu; các dự án khai thác tại các lô dầu khí trọng điểm; hệ thống đường ống khí ngoài khơi và trên bờ; mở rộng các kho LNG; nâng cấp, mở rộng các nhà máy lọc dầu và xây dựng cơ sở chế biến condensate mới.
Viện Dầu khí Việt Nam kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách giá, cơ chế ưu đãi cho dầu khí nước sâu, xa bờ; cơ chế CCS; cơ chế pass-through cho LNG; tăng vốn cho PVN; phát triển hạ tầng; hình thành các trung tâm công nghiệp năng lượng quy mô lớn; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ; phát triển nguồn nhân lực và tăng cường hợp tác quốc tế.
T.S Nguyễn Văn Tư khẳng định, phương án điều chỉnh quy hoạch phân ngành dầu khí được xây dựng trên cơ sở khoa học, phù hợp xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu và đáp ứng yêu cầu an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn tới.

