A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

Cá nhân vi phạm Luật trí tuệ nhân tạo có thể bị phạt tới 1 tỷ đồng

Theo dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tạo hành lang pháp lý đột phá cho trí tuệ nhân tạo

Tiếp tục Kỳ họp thứ 10, sáng 21/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Trí tuệ nhân tạo.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng.

Đề cập về sự cần thiết và mục đích của dự án Luật Trí tuệ nhân tạo, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, dự án Luật Trí tuệ nhân tạo gồm 8 Chương với 36 điều nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, tạo hành lang pháp lý đột phá cho trí tuệ nhân tạo; kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời quản lý rủi ro, bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền con người và chủ quyền số.

Dự án Luật Trí tuệ nhân tạo đảm bảo thể chế hoá các chủ trương, định hướng đã được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.

Luật Trí tuệ nhân tạo là luật khung, linh hoạt và thích ứng với sự phát triển của công nghệ. Luật quy định một cách có hệ thống, toàn diện các biện pháp nhằm cân bằng giữa quản lý và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển, triển khai và ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Luật Trí tuệ nhân tạo đặt con người làm trung tâm với nguyên tắc tối cao là trí tuệ nhân tạo (AI) phục vụ con người, không thay thế con người, con người giám sát AI ở những quyết định trọng yếu; AI phải minh bạch, trách nhiệm và an toàn.

Đồng thời, Luật Trí tuệ nhân tạo quản lý hệ thống AI theo mức độ rủi ro, khuyến khích phát triển AI trong nước và tự chủ về AI, lấy AI làm động lực tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm chủ quyền số quốc gia.

Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, nội dung Luật Trí tuệ nhân tạo kế thừa và bãi bỏ các quy định về AI tại Luật Công nghiệp công nghệ số số 71/2025/QH15; bổ sung các "khoảng trống" pháp lý để hoàn thiện pháp luật về AI. Tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn về xu hướng phát triển AI của một số quốc gia phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Luật Trí tuệ nhân tạo quy định về thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống AI; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan; và quản lý nhà nước đối với các hoạt động AI tại Việt Nam.

Đáng chú ý, tại dự thảo Luật nêu rõ, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo pháp luật dân sự. Nội dung then chốt là thiệt hại do hệ thống AI có rủi ro cao gây ra được xác định là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Theo đó, nhà cung cấp và bên triển khai hệ thống phải chịu trách nhiệm bồi thường kể cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp được miễn trừ theo Bộ luật Dân sự. Trường hợp nhiều chủ thể cùng tham gia (phát triển, cung cấp, triển khai) thì phải liên đới bồi thường; trách nhiệm bồi thường được xác định dựa trên mức độ kiểm soát thực tế, khả năng dự báo và các biện pháp quản lý rủi ro mà mỗi bên đã áp dụng.

Mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính là 2 tỷ đồng đối với tổ chức và 1 tỷ đồng đối với cá nhân. Đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng, mức phạt tiền tối đa có thể lên đến 2% doanh thu của năm trước liền kề của tổ chức.

Nhất trí cần thiết ban hành Luật

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải cho biết, Ủy ban nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo với các cơ sở trình bày trong Tờ trình của Chính phủ.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải.

AI đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những công nghệ nền tảng; cùng với các công nghệ số khác có tác động sâu rộng, làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, quản trị xã hội, cách sống, cách làm việc của con người.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng, ứng dụng ngày càng rộng rãi và hiệu quả tác động tích cực, AI cũng đặt ra nhiều thách thức về kinh tế, xã hội, an ninh, an toàn; tiềm ẩn rủi ro khó dự đoán. Sự phát triển của AI đã đi nhanh hơn việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật.

Trong bối cảnh Việt Nam đang ở giai đoạn đầu phát triển lĩnh vực AI, hệ sinh thái doanh nghiệp, nghiên cứu và ứng dụng còn đang hình thành, việc xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý toàn diện, thống nhất về AI là rất cần thiết nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 52-NQ/TW, Nghị quyết số 57-NQ/TW và các chủ trương lớn về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với công nghệ mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hiện nay, một số luật đã có quy định liên quan đến AI, trong đó Luật Công nghiệp công nghệ số có riêng Chương IV điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, các quy định nêu trên mới chỉ mang tính định hướng, chủ yếu giao Chính phủ quy định chi tiết mà chưa có các nguyên tắc và cơ chế điều chỉnh đầy đủ cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và quản lý rủi ro AI.

Do đó, ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo là cần thiết để bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý hiện có, thiết lập cơ chế quản lý thống nhất, đồng bộ, toàn diện và linh hoạt hơn, phù hợp với đặc thù của lĩnh vực AI; thúc đẩy hội nhập, công nhận lẫn nhau về công nghệ, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu và mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực AI.

Việt Nam lần đầu tiên ban hành luật riêng điều chỉnh về AI và đã nghiên cứu kế thừa các quy định pháp luật hiện hành, nghiên cứu tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, trong đó có kinh nghiệm của châu Âu và Hàn Quốc.

Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ hơn mức độ thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, đặc biệt là về phát triển AI vì con người, vì phát triển bền vững; nâng cao năng suất lao động thông qua ứng dụng AI và cơ chế huy động nguồn lực xã hội, hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng dữ liệu, tính toán hiệu năng cao và đào tạo nhân lực AI.

Đồng thời, từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như AI; phát triển mạnh mẽ ứng dụng AI dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng; thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình sư" trong và ngoài nước về phát triển công nghệ AI…

Mục tiêu hướng đến Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI đến năm 2030; thuộc nhóm 10 nước dẫn đầu thế giới về phát triển và triển khai các giải pháp AI mang lợi ích cao cho xã hội, người dân và quản trị hiện đại.

Theo Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, các nội dung của dự thảo Luật như quy định về chính sách của Nhà nước đối với phát triển AI, nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, bảo đảm chủ quyền công nghệ, an toàn, an ninh mạng và quyền con người, cùng các điều khoản về phát triển hạ tầng dữ liệu, hạ tầng tính toán hiệu năng cao, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy hợp tác quốc tế đã cơ bản bám sát theo chủ trương lớn của Đảng về phát triển đất nước nhanh, bền vững dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.


Tác giả: Quỳnh Nga
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết